Đóng cửa

Vị trí hiện tại: ChouNews > Công nghệ >

Việt Nam sắp có 50.000 kỹ sư bán dẫn: Chúng tôi lo thiếu chứ không phải thừa

Thời gian:2025-11-12 Duyệt:194

Chương trình "Phát triển nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2050 " của chính phủ nhằm đào tạo ít nhất 50.000 kỹ sư, 15.000 người thiết kế vi mạch và 35.000 người sản xuất và đóng gói.

Hoài nói chuyện với VnExpress về năm đầu tiên của chương trình và lý do Việt Nam cần một nguồn lớn chất lượng cao tài năng.

Hỏi: Chương trình này được ra mắt vào tháng 9 năm 2024. Bạn đã đạt được những gì trong một năm kể từ đó?

Theo báo cáo tại cuộc họp Ban Chỉ đạo Quốc gia do Thủ tướng Chính phủ chủ trì vào tháng 8 năm 2025, Việt Nam hiện có khoảng 7.000 kỹ sư thiết kế vi mạch, tăng gần 1.000 người. Tổng số kỹ sư đóng gói/thử nghiệm, vật liệu và thiết bị là 7.000–8.000. Tổng cộng có khoảng 15.000 kỹ sư và khoảng 10.000 kỹ thuật viên. Phần lớn mức tăng này đến từ việc đào tạo lại kỹ năng cho các kỹ sư từ các lĩnh vực lân cận.

Nhiều trường đại học đã giới thiệu các chương trình vi điện tử. Với hàng ngàn người tốt nghiệp mỗi năm, liệu có thể có tình trạng dư thừa trong 5 năm tới?

Vào năm 2024, gần 30 trường đại học cung cấp chuyên ngành hoặc chuyên ngành vi điện tử, tuyển sinh khoảng 10.000 sinh viên và dự kiến ​​sẽ có nhiều sinh viên hơn vào năm 2025. Đối với những vai trò có kỹ năng cao, chúng tôi lo lắng về tình trạng thiếu hụt chứ không phải dư thừa.
Chất bán dẫn là một ngành toàn cầu. Sinh viên tốt nghiệp có thể làm việc tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Châu Âu và Đài Loan (Trung Quốc), tất cả những quốc gia này đều phải đối mặt với khoảng cách nhân tài trầm trọng.

Các đối tác đã ‘đặt hàng’ với Việt Nam thông qua các chương trình học bổng, đồng đào tạo và liên kết việc làm. Đài Loan sẽ tiếp nhận sinh viên Việt Nam, chi trả học phí và cho phép làm việc sau khi tốt nghiệp.

Nhật Bản thường xuyên cử phái đoàn tuyển dụng. Ở quê nhà, Coherent đã bổ sung thêm nhà máy ở Đồng Nai nhưng vẫn thiếu kỹ sư; các doanh nghiệp ở miền Bắc Việt Nam cũng có nhu cầu tương tự. Đạt 50.000 kỹ sư không nên tạo ra tình trạng thất nghiệp; nhu cầu có thể vượt quá nguồn cung.

Nhu cầu trong nước lớn đến mức nào?

Nó đang tăng lên nhanh chóng. Các công ty thiết kế vi mạch đã tăng từ khoảng 40 lên gần 60 trong hai năm. Các công ty đóng gói, thử nghiệm và sản xuất đã tăng gấp đôi từ 7 lên 15, bao gồm Coherent, Amkor, Hana Micron và các công ty khác từ Hàn Quốc, Pháp và Đài Loan.

Các công ty đang mở rộng quy mô: Marvell đã mở rộng từ 300 lên hơn 500 kỹ sư thiết kế và Qorvo đã bổ sung thêm khoảng 100 người trong vòng chưa đầy hai năm. Trên toàn cầu, chất bán dẫn tăng trưởng ở mức 10–12% mỗi năm và ở Việt Nam là 15–17% (từ mức cơ bản thấp).

Sự tăng trưởng đó sẽ giúp thu hút 50.000 kỹ sư. Ngoài thiết kế vi mạch, các kỹ năng đóng gói/thử nghiệm, sản xuất và vật liệu là nền tảng và có thể chuyển giao sang các ngành khác.

Việt Nam thực sự có thể đào tạo được 50.000 kỹ sư không?

Việt Nam đã tập trung vào các khóa học chuyển đổi ngắn hạn kéo dài 3 tháng để chuyển những sinh viên STEM giỏi từ các chuyên ngành lân cận sang vai trò bán dẫn. Nhiều người có thể bắt đầu công việc ngay lập tức, [thực hiện] nhanh chóng và tiết kiệm chi phí.

Kể từ tháng 3 năm 2025, Việt Nam đã có các tiêu chuẩn chính thức dành cho đại học và sau đại học về vi điện tử. Trước đây chỉ có một số trường liền kề có chương trình tốt nghiệp vài trăm sinh viên mỗi năm. Kể từ khi chương trình được triển khai, nhiều trường đã bắt đầu các chuyên ngành mới với lượng tuyển sinh dồi dào. Để được nhận vào một số trường trong số đó, ứng viên cần đạt điểm trung bình trên 9/10 mỗi môn để được nhận vào học.

Bằng cách kết hợp các khóa học ngắn hạn và bằng cấp chính quy, mục tiêu 50.000 phải được đáp ứng đúng tiến độ hoặc trước mắt.

Có thể duy trì chất lượng trong khi đào tạo nhiều người một cách nhanh chóng như vậy không?

Từ một khóa học gần đây do NIC, Cadence và FPT tổ chức, 45 trong số 70 sinh viên tốt nghiệp đã được Marvell, Faraday, Viettel và các công ty khác thuê trong khi số còn lại ra nước ngoài để nghiên cứu sâu hơn.

Những người học này là sinh viên trước khóa học ngắn hạn, cho thấy rằng chất lượng đào tạo ở mức khá cao ngay cả trong các chương trình chuyển đổi. Điểm yếu là cơ sở hạ tầng.

Các chương trình đại học cần có phòng thí nghiệm thực tế và thực hành thực tế. Việt Nam thiếu cơ sở vật chất, tạo khoảng cách kỹ năng khi tốt nghiệp. Do đó, chương trình hỗ trợ bốn phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia dùng chung tại Đại học Quốc gia Việt Nam, Hà Nội; Đại học Quốc gia Việt Nam, TP.HCM, Đà Nẵng và NIC.

Bộ Tài chính đã tổng hợp các nhu cầu; kế hoạch thực hiện vào năm 2026. Một nút thắt khác là có được đội ngũ giảng viên chất lượng quốc tế. Không có giáo viên xuất sắc thì không thể có sinh viên xuất sắc.

Việt Nam nên mở rộng hợp tác quốc tế, cử giảng viên đi đào tạo và cấp học bổng cho sinh viên xuất sắc đi du học. Giải quyết được hai vấn đề này sẽ nâng cao chất lượng một cách mạnh mẽ.

Việt Nam từng có quá nhiều người có bằng cấp nhưng lại có quá ít công nhân lành nghề. Điều đó có thể xảy ra ở đây không?

Không. Việt Nam đang đào tạo song song cả hai. Chương trình tập trung vào các kỹ sư và bằng cử nhân, trong khi đào tạo kỹ thuật viên được đảm nhận bởi các trường cao đẳng và trường dạy nghề. Nhưng Việt Nam đặt mục tiêu tiến tới những phần có giá trị cao hơn trong chuỗi chứ không dừng lại ở khâu lắp ráp và thử nghiệm. Trong lĩnh vực bán dẫn, nhân tài sau đại học (thạc sĩ/Tiến sĩ) cuối cùng sẽ chiếm một tỷ lệ lớn trong lực lượng lao động.

Để tiến sâu hơn vào chuỗi giá trị, Việt Nam cần lực lượng lao động trí tuệ trình độ cao; mặt khác, nó vẫn ở mức hợp đồng có giá trị thấp. Mục tiêu là tạo ra và đặt ra các điều khoản của trò chơi cũng như các khả năng phải phù hợp với tham vọng đó.

Ngành công nghiệp bán dẫn của Việt Nam có thể trông như thế nào sau 5 năm nữa?

Nếu chương trình đi đúng hướng, Việt Nam có thể có hơn 50.000 kỹ sư và 15–20 nhà máy đóng gói/thử nghiệm và vật liệu/thiết bị vào năm 2030. Đảm bảo ngay cả một nhà máy chế tạo chip cũng sẽ là một bước đột phá—tốn kém và khó khăn, nhưng là mấu chốt để tiến sâu hơn sự tham gia.

Động lực trong lĩnh vực bán dẫn và các lĩnh vực công nghệ cao khác đang tăng cường mối quan hệ với Vương quốc Anh, Pháp, Ý, Áo, Hà Lan, Bỉ cũng như Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản.

Khi Việt Nam báo hiệu một cam kết rõ ràng, các đối tác sẽ phản ứng bằng sự hợp tác thực tế 'đôi bên cùng có lợi'. Lợi ích chung giúp các mối quan hệ đối tác này bền chặt và mở ra cơ hội cho Việt Nam tiến sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

*Ghi chú của biên tập viên: Được triển khai vào tháng 9 năm 2024, chương trình hướng tới ít nhất 50.000 sinh viên tốt nghiệp có trình độ cử nhân trở lên, 4 phòng thí nghiệm bán dẫn quốc gia và 18 phòng thí nghiệm của tổ chức để đào tạo và nghiên cứu.

Chương trình liệt kê các giải pháp, bao gồm cơ chế chính sách, đầu tư cơ sở hạ tầng, tổ chức đào tạo, R&D, xây dựng hệ sinh thái và mở rộng hợp tác quốc tế nhằm đưa Việt Nam hội nhập sâu vào chuỗi giá trị bán dẫn toàn cầu vào năm 2050.

Trang chủ: