Trong nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ không chỉ là một công cụ để tăng sản lượng và chất lượng sản phẩm. Đó là chìa khóa mở ra cánh cửa cho kiến thức và thị trường cho nông dân. Tuy nhiên, đối với công nghệ để tạo ra giá trị trong sản xuất trong thế giới thực, một hành lang chính sách mở và nhất quán là rất cần thiết, đặc biệt là đối với các công nghệ mới, rủi ro cao hơn.
Công nghệ Lie vẫn còn trong phòng thí nghiệm
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường - Nhiều kết quả nghiên cứu trong khoa học cây trồng cho thấy một trụ cột rõ ràng đối với nông nghiệp công nghệ cao. Chỉ riêng trong sáu tháng đầu năm 2023, các đơn vị bộ được nhân giống và công nhận 25 giống mới trên các mặt hàng chủ lực, cây lương thực, cây ăn quả và cây thuốc, đồng thời phát triển chín giao thức trồng trọt chuyên sâu và GACP-WHO để sản xuất thương mại.
Một liên kết thường để mở trong chuỗi giá trị - Postharvest - cũng đã nhận được sự chú ý. Các nhà khoa học đã hoàn thành các công nghệ quy trình cho các loại trái cây quan trọng như chuối, sầu riêng và bơ. Các quy trình này kéo dài các cửa sổ thu hoạch ít nhất 15 ngày, tăng tỷ lệ chín đồng đều trên 95 % và kéo dài lưu trữ đến 25 ngày, đáp ứng nhu cầu vận chuyển và xuất khẩu quốc tế chặt chẽ hơn.
Tuy nhiên, không phải một vài công nghệ vẫn bị mắc kẹt trong phòng thí nghiệm do thiếu chính sách cho phép. Một trường hợp điển hình là nhân giống rau lai F1. Việt Nam vẫn chưa thành thạo hạt thực vật lai F1 - nền tảng của nông nghiệp công nghệ cao vì họ xác định năng suất, chất lượng và khả năng phục hồi khí hậu. Đất nước này vẫn nhập khẩu 80 đến 90 phần trăm hạt giống cho các loại cây trồng như bắp cải, kohlrabi, cà rốt, hành tây, dưa chuột và dưa. Người ta ước tính rằng Việt Nam chi hơn 200 triệu USD mỗi năm cho việc mua hạt giống.
Một lý do khiến các viện ngần ngại bắt tay vào nghiên cứu này là khoản đầu tư lớn và rủi ro cao, trong khi các cơ chế khuyến khích và bảo hiểm rủi ro cho các nhà khoa học đang thiếu. Trong thập kỷ qua, chỉ có Viện Cây lương thực và Thực phẩm đã hợp tác với Viện nghiên cứu rau Nhật Bản, gửi nhân viên đào tạo và mua lại các công nghệ cho nhân giống rau lai F1. Nhóm Viện Viện đã tạo ra thành công một chiếc Babbage Hybrid F1 nhưng phải dừng lại ở quy mô thí điểm do tài trợ hạn chế và không có cơ chế hỗ trợ dài hạn.
Một lý do của các viện ngần ngại bắt tay vào nghiên cứu này là khoản đầu tư lớn và rủi ro cao, trong khi các cơ chế khuyến khích và bảo hiểm rủi ro cho các nhà khoa học đang thiếu.
Một nhóm Viện khác hợp tác với Bỉ - một nhà lãnh đạo toàn cầu về các giống khoai tây và công nghệ trồng trọt - để hoàn thành một giao thức sản xuất khoai tây tích hợp, số hóa. Hệ thống hợp nhất dữ liệu và mô hình kỹ thuật số để kiểm soát tất cả các đầu vào như hạt giống, phân bón, lịch gieo, làm đất và tưới, giúp nông dân đưa ra quyết định chính xác ở mỗi giai đoạn. Nếu được áp dụng rộng rãi, công nghệ có thể tăng gấp đôi sản lượng khoai tây lên hơn 30 tấn mỗi ha, cho phép xử lý và xuất khẩu sâu. Tuy nhiên, giao thức đã không được chuyển cho nông dân vì thiếu chính sách và tài trợ.
Chỉnh sửa gen được coi là một công nghệ của thời đại và là một chỉ số chính của một quốc gia về năng lực khoa học và công nghệ trong công nghệ sinh học. Nó cũng hứa hẹn một bước ngoặt cho nông nghiệp bằng cách sản xuất các giống có khả năng chịu căng thẳng mạnh mẽ, khả năng thích ứng khí hậu, chu kỳ tăng trưởng ngắn hơn, năng suất cao hơn và chi phí thấp hơn.
Kể từ năm 2017, các tổ chức nghiên cứu trong nước đã thực hiện các dự án chỉnh sửa gen bằng gạo, ngô và đậu tương. Nhiều người đã sản xuất các giống đã sẵn sàng để sản xuất và nhiều doanh nghiệp đã yêu cầu chuyển giao công nghệ. Nhưng giới thiệu vẫn không thể vì Việt Nam thiếu một hành lang pháp lý rõ ràng cho các sinh vật được chỉnh sửa gen. Do Tien Phat, Tiến sĩ, Viện Sinh học-Học viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, cho biết các dòng được chỉnh sửa gen như đậu nành cao cấp, cà chua giàu chất dinh dưỡng và thuốc lá chống virus đã được phát triển thành công và sẵn sàng chuyển sang các công ty và nông dân.
Vào ngày 12 tháng 6, Thủ tướng đã đưa ra một danh sách các công nghệ chiến lược và các sản phẩm công nghệ chiến lược, công nhận chỉnh sửa gen như một hướng ứng dụng chiến lược trong chăm sóc sức khỏe và nông nghiệp. Điều này cho thấy hành lang pháp lý đang dần hình thành. Các chính sách hiện cần được chỉ định nhanh chóng, bao gồm một hộp cát chuyên dụng, linh hoạt để chỉnh sửa gen.
từ chính sách đến người
Nhiều chuyên gia cho rằng các tắc nghẽn quản lý thể chế, tài chính và nghiên cứu phải được gỡ bỏ. Son Nguyen Ngoc, Tiến sĩ, phó giáo sư và là thành viên của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Quốc hội, cho biết hệ sinh thái đổi mới nông nghiệp vẫn bị phân mảnh và thiếu các ươm tạo quy mô khu vực cho các công ty khởi nghiệp AGRI công nghệ cao để điều khiển các mô hình thí điểm trước khi mở rộng quy mô. Công nghệ trong nước vẫn còn yếu, với sự phụ thuộc nặng nề vào thiết bị nước ngoài, hạt giống và phần mềm. Các mối liên kết chặt chẽ vẫn còn thiếu giữa các viện, doanh nghiệp và nông dân để chuyển giao kiến thức và công nghệ một cách hiệu quả và bền vững.
Theo TIEN PHAT, Tiến sĩ, nếu nhà nước tiếp tục tài trợ cho nghiên cứu và các nhà khoa học tiếp tục đi xa nhưng các sản phẩm của họ không bao giờ đạt được ứng dụng thực tế, kết quả không chỉ là một sự lãng phí ngân sách mà còn cả trí tuệ.
Do đó, bước đầu tiên là thay đổi cách tiếp cận chính sách, chuyển từ khuyến khích của người Hồi giáo sang để cho phép các cơ chế mở ra các con đường, chia sẻ rủi ro và xúc tác cho sự hợp tác của nhiều bên. Khi nhà nước tạo ra các điều kiện cho phép, công dân, doanh nghiệp và các nhà khoa học có thể cùng nhau xây dựng một hệ sinh thái nông nghiệp sáng tạo.
Nguyen Trong Khanh, Tiến sĩ, Giám đốc Viện Cây lương thực và Thực phẩm, hy vọng Nghị quyết 57-NQ/TW về các bước đột phá về khoa học và công nghệ.
Ông đã trích dẫn các thiếu sót trong Nghị định 70/2018/ND-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 về kế hoạch quản lý và sử dụng tài sản được hình thành thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ bằng cách sử dụng các quỹ nhà nước. Để chuyển một loại cây trồng mới, các nhà khoa học phải soạn thảo một đề xuất định giá, báo cáo cho các bộ và cam kết rằng sản phẩm sẽ đạt quy mô cụ thể trong lĩnh vực này sau vài năm. Tuy nhiên, thành công không chỉ phụ thuộc vào các nhà khoa học mà còn vào các doanh nghiệp, thị trường và đầu tư. Do đó, các nhà khoa học miễn cưỡng chấp nhận rủi ro trong việc chuyển giao đầu ra nghiên cứu.
Với độ phân giải 57-NQ/TW, nhiều nhà khoa học tin rằng các sản phẩm khoa học có giá trị sẽ được chủ động áp dụng bởi các doanh nghiệp và thị trường, trong khi nhà nước nên tiến hành đánh giá bài đăng sau 3 đến 5 năm để đánh giá kết quả, khuyến khích các nhà khoa học chuyển kết quả với sự tự tin.
Nghị quyết 57-NQ/TW, thúc đẩy tăng tốc ứng dụng nghiên cứu vào sản xuất sẽ không chỉ mở khóa giá trị của khoa học và công nghệ. Đây cũng là một giải pháp khẩn cấp để duy trì lực lượng lao động khoa học trong nông nghiệp, đã phải đối mặt với một dòng chảy não của Hồi giáo do giảm số lượng đầu và không đủ ưu đãi trong những năm gần đây.
Theo TIEN PHAT, Tiến sĩ, nếu nhà nước tiếp tục tài trợ cho nghiên cứu và các nhà khoa học tiếp tục đi xa nhưng các sản phẩm của họ không bao giờ đạt được ứng dụng thực tế, kết quả không chỉ là một sự lãng phí ngân sách mà còn là trí tuệ. Các nhà khoa học, những nỗ lực của người Viking không được xã hội công nhận và không tạo ra động lực để tiếp tục cống hiến. Nếu chưa được giải quyết thông qua các chính sách đột phá, thực tế này sẽ tiếp tục làm xói mòn nguồn nhân lực chất lượng cao trong khoa học và công nghệ, đặc biệt là trong nông nghiệp công nghệ cao.
Nhan Dan